Giới thiệu những điểm mới quy định trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.

Thứ bảy - 03/12/2016 03:46
Ngày 25/11/2015, Quốc hội đã thông qua đã thông qua Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, thay thế cho Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, đây là một trong 7 đạo luật mới về tư pháp mới được Quốc hội khóa XIII thông qua. Để bạn đọc có thể hiểu thêm về những quy định của Đạo luật này, Ban biên tập đăng toàn văn bài viết của Tiến sỹ Lê Minh Long, Viện trưởng Viện KSND tỉnh Cao Bằng với nội dung "Giới thiệu những điểm mới quy định trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự". Rất mong được sự phản hồi từ các bạn đọc.
I. QUAN ĐIỂM ĐẶT RA VÀ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU KHI XÂY DỰNG LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ
        Ngày 20/8/2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2006, 2009.Sau khi Pháp lệnh được ban hành và triển khai thực hiện, các Cơ quan điều tra chuyên trách và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã được tổ chức theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu. Các chế định của Pháp lệnh đã đáp ứng được yêu cầu công tác điều tra hình sự, tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra các vụ án hình sự. Kết quả đã thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
       Tuy nhiên qua thực tiễn triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự cho thấy đã phát sinh nhiều vấn đề vướng mắc, hạn chế, bất cập cần thiết phải xây dựng, ban hành Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đó là:
       - Nhiều chế định trong Pháp lệnh còn quy định chung chung, các chế định quy định về thẩm quyền điều tra, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động điều tra, mối quan quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chưa đảm bảo sự phân công, phân cấp rõ ràng, rành mạch và chưa đảm bảo chặt chẽ trong việc kiểm soát quyền lực; quy định về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên chưa chặt chẽ, cụ thể, chưa phát huy được trách nhiệm và tính chủ động, sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung thống nhất của các chủ thể trong hoạt động điều tra; chưa có quy định về quản lý nhà nước công tác điều tra hình sự.
        - Mặc dù có sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, chưa thể chế hóa, cụ thể hóa đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp và chưa thể chế hóa các quy định của Hiến pháp.
Ngày 25/11/2015, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, thay thế cho Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung vào năm 2006, 2009). Nội dung của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự quán triệt được các nội dung cơ bản sau:
        - Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã thể chế hóa chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về cải cách tư pháp, về tổ chức của cơ quan điều tra hình sự
       - Luật đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động điều tra hình sự; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với quy định của các đạo luật mới được Quốc hội thông qua như Luật tổ chức Viện KSND, Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS…
        - Luật đã kế thừa các quy định còn phù hợp đang phát huy tác dụng tốt, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế của pháp luật về điều tra hình sự; đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra hình sự trong tình hình hiện nay và những năm tiếp theo.

        II. TỔNG QUAN CỦA LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ VÀ NHỮNG NỘI DUNG BỔ SUNG, SỬA ĐỔI LỚN
       Về hiệu lực pháp lý, thì Pháp lệnh có 38 điều, là văn bản dưới luật. Để tạo cơ sở pháp lý tương xứng và đồng bộ với những đạo luật khác vừa được Quốc hội thông qua, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự đã được nâng lên thành Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự gồm 10 chương, 73 điều.
       Về nội dung điều chỉnh, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã có sự đổi mới căn bản về chất, nội dung của Luật đã quy định đầy đủ, cụ thể hơn về:
       - Nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự;
       - Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT chuyên trách, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; về các chủ thể tiến hành các hoạt động điều tra hình sự;
       - Quy định về quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong hoạt động điều tra hình sự và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động điều tra hình sự, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
        So với Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự hiện hành, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự có những nội dung mới cơ bản sau đây:
       1. Về nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự (Điều 3)
       Kế thừa quy định của Pháp lệnh, Điều 3 của Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung quy định rõ ràng và đầy đủ hơn các nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; tổ chức điều tra hình sự phải bảo đảm 04 nguyên tắc sau:
       Thứ nhất, Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
       Thứ hai, Bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; phân công, phân cấp rành mạch, chuyên sâu và được kiểm soát chặt chẽ;
       Thứ ba, Cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Cơ quan điều tra cấp trên; cá nhân chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình;
       Thứ tư, chỉ cơ quan, người có thẩm quyền quy định trong Luật này mới được tiến hành hoạt động điều tra hình sự.
       Đây là những tư tưởng chỉ đạo, có tính xuyên suốt mà các Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ trong quá trình tổ chức điều tra hình sự.
       2. Về những hành vi bị nghiêm cấm
        Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung 01 điều luật mới (Điều 14) quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có các quy định:
        - Làm sai lệch hồ sơ vụ án; làm oan ngoài vô tội  hoặc bỏ lọt tội phạm; can thiệp trái pháp luật vào việc điều tra vụ án hình sự.
        - Bức cung, dùng nhục hình; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
        - Cản trở được quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; quyền khiếu nại, tố cáo của người khác;
        - Cản trở người bào chữa, người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện việc bào chữa, trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật.
       3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra, của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
      3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra chuyên trách (Điều 8).
      - Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
      - Tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao.
      - Tiến hành điều tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố.
       - Tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
      3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 10).
      Khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này.
       3. Về tổ chức bộ máy và thẩm quyền của Cơ quan điều tra chuyên trách
       3.1. Đối với Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân
       Về tổ chức bộ máy đã có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm (Điều 18):
      - Đối với Cơ quan CSĐT, Luật đã quy định hợp nhất hai đơn vị và thành lập đơn vị mới để tạo điều kiện hoạt động điều tra mang tính chuyên, đảm bao sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra trinh sát và hoạt động điều tra theo tố tụng.
      Tại Cơ quan CSĐT - Bộ công an, Luật quy định hợp nhất Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng và Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thành Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; Đồng thời thành lập mới Cục CSĐT tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Cục CSĐT tội phạm về buôn lậu)
      Tại Cơ quan CSĐT - Công an cấp tỉnh thành lập mới Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu).
       - Đối với Cơ quan ANĐT, Luật kế thừa nguyên quy định của Pháp lệnh, có sửa chữa cho tương xứng với Bộ luật tố tụng hình sự.
      Về thẩm quyền của CQĐT trong Công an nhân dân về cơ bản giữ nguyên như quy định của pháp luật hiện hành, có sửa chữa để phù hợp với Bộ luật TTHS sửa đổi. Để giải quyết những vướng mắc, bất cập trên thực tiễn, Luật quy định theo hướng tăng thẩm quyền điều tra cho cấp cơ sở, tạo điều kiện cho cấp trung ương và cấp tỉnh thực hiện tốt việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác điều tra.
      - Đối với Cơ quan CSĐT - Bộ công an, Luật bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan CSĐT - Bô công an tiến hành điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại (Điều 19).
      - Đối với Cơ quan ANĐT Bộ Công an, Luật bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan ANĐT Bộ Công an được điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan ANĐT do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại (Điều 16); bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan ANĐT Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để đảm bảo khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an (Điều 17).
       3.2. Đối với Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
       Về tổ chức, bộ máy: Được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh năm 2004 (Điều 22, Điều 25).
       Về thẩm quyền điều tra: về cơ bản giữ nguyên như quy định của pháp luật hiện hành, có sửa chữa để phù hợp với Bộ luật TTHS sửa đổi, có thay đổi bổ sung một số thẩm quyền điều tra, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong quân đội yếu tố nước ngoài tạo điều kiện Cơ quan điều tra cấp Bộ thực hiện tốt việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác điều tra.
       - Đối với Cơ quan ANĐT trong Quân đội thẩm quyền điều tra các tội khủng bố, tội tài trợ khủng bố (các điều 23, 24).
      - Đối với Cơ quan ĐTHS trong Quân đội cơ bản giữ như quy định của Pháp lệnh năm 2004, có chỉnh lý cho phù hợp BLTTHS (sửa đổi). Bổ sung cho Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan ĐTHS do Hội đồng Thẩm phán Tòa án quân sự hủy để điều tra lại (các Điều 26, 27, 28)
        3.3. Đối với Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
        Luật đã quy định một số nội dung mới tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương quy định phù hợp với Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, đó là:
       Về tổ chức bộ máy: Luật quy định cụ thể Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao gồm có các Phòng điều tra và bộ máy giúp việc; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có Ban điều tra và bộ phận giúp việc (Điều 29).
      Về thẩm quyền: Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao có thẩm quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. (khoản 2, Điều 30, khoản 2 Điều 31)
       4. Về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
       Kế thừa những quy định của Pháp lệnh, Luật đã bổ sung, quy định về tổ chức, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cho phù hợp để giải quyết những vướng mắc, bất cập nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác điều tra hình sự, cụ thể như sau:
       4.1. Về tổ chức, bộ máy của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
      Thực hiện tinh giảm đầu mối, không quy định Cảnh sát quản lý hành chính là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; bổ sung quy định về Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (cấp bộ), Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao (cấp tỉnh) và các cơ quan của Kiểm ngư (Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư Vùng) là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 9).
       Luật quy định có tổng số 07 cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong đó giữ nguyên 6 cơ quan gồm: Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển: Cơ quan thuộc lực lượng An ninh và lực lượng Cảnh sát trong
CAND; bổ sung thêm cơ quan Kiểm ngư. Gồm 40 đầu mối bớt đi 1 đầu mối, bổ sung thêm 4 đầu mối. Việc quy định như vậy để tạo cơ chế đảm bảo các tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và xử l‎‎ý nhanh chóng kịp thời thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
        4.2. Về thẩm quyền của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
        Luật quy định cụ thể hơn về việc giao cho các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra. Luật quy định trong thời hạn 30 ngày, (Pháp lệnh quy định chỉ có 20 ngày) kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án, kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền (từ Điều 32 đến Điều 39);
        4.3. Về thẩm quyền của lực lượng Công an xã, phường, đồn, thị trấn:
        Luật không quy định là cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, nhưng lại bổ sung cho lực lượng này thẩm quyền được thực hiện một số hoạt động kiểm tra thông tin ban đầu. Thực tiễn cho thấy việc quy định lực lượng này được tiến hành một số hoạt động kiểm tra thông tin ban đầu liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo công tác điều tra các vụ án hình sự.
        5. Về quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra
       - Để xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát; phân định rõ thẩm quyền hành chính và tố tụng trong hoạt động chỉ đạo của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Luật bổ sung Điều 42 quy định về quan hệ giữa đơn vị điều tra và đơn vị trinh sát trong điều tra hình sự và Điều 43 quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan Công an, Quân đội các cấp đối với hoạt động điều tra hình sự.
     - Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Công an cấp cơ sở, Luật bổ sung Điều 44 quy định về trách nhiệm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an trong hoạt động điều tra hình sự theo hướng phân biệt rõ trách nhiệm của Công an xã, của Công an phường, thị trấn, Đồn Công an phù hợp với hoạt động phục vụ công tác điều tra, cũng như trình độ cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất của các cơ quan, đơn vị này.
      6. Về chủ thể tiến hành hoạt động điều tra
      6.1. Về chế định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra:
      Luật quy định cụ thể hơn ngoài trách nhiệm tố tụng tư pháp (Khi điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự). Điều 52 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự còn quy định Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra còn có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý hành chính tư pháp như: Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác và tổng kết công tác điều tra hình sự; Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới; Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra;
        6.2. Về chế định Điều tra viên:
       - Về nhiệm vụ quyền hạn của Điều tra viên (Điều 53, Điều 54) Luật quy định ngoài trách nhiệm và thẩm quyền theo tố tụng hình sự, Điều tra viên còn không được làm những việc mà cán bộ, công chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân không được làm; không được đưa hồ sơ, tài liệu vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền; không được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định...
       - Về chức danh pháp lý, Luật quy định có 3 ngạch (Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp). Điểm mới của Luật là không xét tuyển chọn Điều tra viên mà chỉnh lý phù hợp, luật tổ chức Tòa án nhân dân, luật tổ chức Viện KSND thực hiện thi tuyển ngạch đối với Điều tra viên. Nhiệm kỳ bổ nhiệm lần đầu là 05 năm, bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch là 10 năm. từ Điều 45 đến Điều 51, 56, 58: gồm
        6.3. Về chế định Cán bộ điều tra: Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự bổ sung chức danh Cán bộ điều tra là người tiến hành tố tụng để phù hợp với Bộ luật tố tụng hình sự.
        - Đối với Cán bộ điều tra của các cơ quan điều tra chuyên trách là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực điều tra hình sự, giúp Điều tra viên thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự (Đối với cán bộ điều tra thuộc các Cơ quan điều tra trong QĐND và CAND do Thủ trưởng CQĐT bổ nhiệm; đối với cán bộ điều tra thuộc CQĐT của Viện KSND tối cao do Viện trưởng bổ nhiệm) .
        - Đối với cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều ra là người được giao nhiệm vụ giúp Thủ trưởng cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS và Luật này (Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều ra do thủ trưởng cơ quan phân công theo từng vụ, việc được phát hiện (Điều 59).
        7. Về trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác điều tra hình sự
       Luật bổ sung quy định Chính phủ thống nhất quản lý về công tác điều tra hình sự, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành liên quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý về công tác điều tra hình sự. Trong đó, Bộ Công an chỉ thực hiện quản lý chung.
       Đối với các công tác quản lý nhà nước như thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động điều tra hình sự, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra hình sự, quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra… thì của Bộ, Ngành nào do Bộ, Ngành đó thực hiện theo thẩm quyền.
       
        III
. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH KIỂM SÁT
        1. Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra
       Điều 11 Luật quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra; Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật TTHS; xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật.Chế định này đã khẳng định vai trò, vị trí và trách nhiệm của VKS trong điều tra hình sự (phù hợp với Luật tổ chức VKSND, Bộ luật TTHS sửa đổi). Các quy định trong Luật tổ chức CQĐT hình sự đều có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện KSND tối cao, Viện KSND các địa phương, Viện kiểm sát quân sự trung ương khi THQCT, kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
        2. Về quan hệ giữa các cơ quan điều tra trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra
       Để tháo gỡ những vướng mắc và thống nhất nhận thức về thẩm quyền xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố vụ án đối với những tội phạm chưa xác định rõ thẩm quyền, tránh tình trạng sau khi khởi tố vụ án chuyển cơ quan có thẩm quyền lại không nhận hồ sơ vụ án. Tại khoản 4 Điều 40 của Luật quy định: Đối với sự việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra thì Cơ quan điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS và luật này; khi đã xác định được thẩm quyền điều tra thì chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Quy định này theo quy định của Bộ luật TTHS đã tạo cơ sở pháp lý để VKSND quyết định khi giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
         3. Về mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao
        Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương được mở rộng thẩm quyền điều tra cả về loại tội phạm, cả loại tội danh mới trong BLHS, mở rộng cả về diện đối tượng phạm tội đó là:
        - Mở rộng thẩm quyền điều tra về loại tội phạm: Ngoài thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, còn được mở rộng thẩm quyền điều tra tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLHS xảy ra trong hoạt động tư pháp.
        - Mở rộng thẩm quyền điều tra về đối tượng:
       + Luật đã bổ sung thêm thẩm quyền điều tra hành vi phạm tội của những có người thẩm quyền thực hiện các hoạt động tư pháp gồm: Người bào chữa, người giám định, người dịch thuật, quản giáo, cán bộ điều tra;
       + Bổ sung thêm thẩm quyền điều tra về diện đối tượng trong các cơ quan mới được giao thẩm quyền được giao tiến hành một số hoạt động điều tra thuộc các đơn vị Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (cấp bộ), Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao (cấp tỉnh) và các cơ quan của Kiểm ngư (Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư Vùng) và Lực lượng Công an các xã, phường, Đồn, thị trấn.
       - Mở rộng thẩm quyền điều tra về loại tội danh: Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương 14 Bộ luật hình sự mới sửa đổi bổ sung, môt số hành được tội phạm hóa như: Làm sai lệch hồ sơ vụ việc (Điều 375) hoặc Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn (Điều 377)

        IV. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ
         Điều 71 quy định từ ngày 01/7/2016 Luật tổ chức CQĐT hình sự có hiệu lực thay thể Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Vì vậy, để việc triển khai thi hành Luật được kịp thời, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao đề xuất Lãnh đạo Viện KSND tối cao, đề nghị các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện KSND tối cao và Viện KSND các địa phương quan tâm một số nội dung sau:
        1. Thực hiện việc phân công THQCT - KSHĐT của các cơ quan mới được bổ sung nhiệm vụ điều tra và tiến hành một số hoạt động điều tra
       Luật đã quy định tổ chức, bộ máy của Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã có sự thay đổi: Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ không được hoạt động, đã hình thành Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; thành lập mới Cục CSĐT tội phạm về buôn lậu ở Cơ quan CSĐT - Bộ công an; Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu ở một số Cơ quan CSĐT - Công an cấp tỉnh. Luật đã quy định bổ sung lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, các cơ quan của Kiểm ngư là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.Vì vậy, Ngành kiểm sát cần thực hiện việc phân công cụ thể các đơn vị THQCT - KSHĐTP trong điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra chuyên trách mới thành lập và các cơ quan mới được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, 
         2. Về việc triển khai thực hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra  Viện KSND tối cao:
        Theo quy định Luật thì Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương được mở rộng thẩm quyền điều tra cả về loại tội phạm, cả loại tội danh mới trong BLHS, mở rộng cả về diện đối tượng phạm tội.. Như vậy, dự báo số tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố, cũng như số vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp do Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao phải thụ lý, giải quyết sẽ tăng và ngày càng nhiều. Vì vậy, để tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra của ngành kiểm sát hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao cần thực hiện một số nội dung cụ thể sau:
        - Thực hiện xây dựng Đề án Tăng cường năng lực Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao để tạo điều kiện trang bị cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và bổ sung biên chế nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tăng thêm của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao.
        - Với tổ chức, bộ máy của Cơ quan điều tra của Viện KSND chỉ có đại diện 3 miền, không có lực lượng chân rết ở cơ sở, nếu chỉ có CQĐT đơn phương thực hiện thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong nắm thông tin loại tội phạm này. Vì vậy, các đơn vị Viện KSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra, triển khai thực hiện tốt chỉ thị  của Viện trưởng Viện KSND tối cao về công tác phối hợp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm xâm phạm HĐTP, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong HĐTP.
        3. Về quy định chuyển tiếp giữa Pháp lệnh và Luật.
       - Quy định về chuyển giao thẩm quyền giải quyết vụ án: Đối với những vụ án đang được các Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền quy định trong Pháp lệnh tổ chức điều tra hình nhưng đến ngày Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự có hiệu lực mà chưa kết thúc điều tra thì tiếp tục điều tra cho đến khi kết thúc điều tra vụ án. Như vậy, đối với tố giác, tin báo tội phạm theo quy định tai Điều 31, Điều 31 của Luật này tính đến ngày 1/7/2015 chưa khởi tố vụ án thì phải chuyển đến Cơ quan điều tra của Viện KSND tối cao để giải quyết theo thẩm quyền. Vì vậy, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện KSND tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương; Viện KSND các địa phương và Viện kiểm sát quân sự các cấp phối hợp với Cơ quan điều tra rà soát, tổng hợp các tố giác, tin báo tội phạm nêu trên nhưng đến khi Luật có hiệu lực vẫn chưa khởi tố vụ án, làm thủ tục chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương tiếp tục thụ lý và giải quyết theo thẩm quyền.
       - Quy định về chuyển tiếp công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức danh tư pháp. Theo tinh thần của Luật thì kể từ ngày Luật này có hiệu lực, Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp, Điều tra viên cao cấp đã được bổ nhiệm theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì tiếp tục giữ chức danh đó cho đến hết nhiệm kỳ. Như vậy, đối với những công chức đã được bổ nhiệm chức danh Điều tra viên khi làm thủ tục bổ nhiệm không phải thi tuyển viên cao cấp đã được bổ nhiệm theo quy định của Pháp lệnh thì vẫn tiếp tục giữ chức danh đó cho đến hết nhiệm kỳ.
         4. Về việc xây dựng cơ chế đảm bảo hoạt động điều tra hình sự:
         Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được ban hành đã kế thừa các quy định  còn phù hợp đang phát huy tác dụng tốt, khắc phục những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh năm 2004, tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự trong tình hình mới. Vì vậy, Ngành kiểm sát cần tiến hành rà soát, sửa đổi các quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát với các Cơ quan điều tra chuyên trách, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra để việc áp dụng Luật được đảm bảo tính thống nhất để áp dụng pháp luật khi chuyển tiếp giữa Pháp lệnh và Luật,  tạo cơ chế để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao. Như các quy chế phối hợp về: Tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo, tội phạm và điều tra các vụ án hình sự, phối hợp về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động điều tra và phối hợp trong việc kiểm soát các hoạt động của lực lượng công an xã, phường, thị trấn./.

Tác giả: Lê Minh Long

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://kiemsatcaobang.vn là vi phạm bản quyền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

3028/VKSTC-V14

"V/v quán triệt, triển khai thực hiện nội dung các đạo luật mới được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 5"

Thời gian đăng: 09/01/2024

lượt xem: 195 | lượt tải:0

14/HDLN-BCA-VKSNDTC

HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC PHỐI HỢP TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Thời gian đăng: 09/01/2024

lượt xem: 208 | lượt tải:56

766/2022/QĐ-CTN

QUYẾT ĐỊNH VỀ ĐẶC XÁ NĂM 2022

Thời gian đăng: 09/01/2024

lượt xem: 189 | lượt tải:33
Liên kết website
Lịch năm 2024
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập13
  • Máy chủ tìm kiếm5
  • Khách viếng thăm8
  • Hôm nay8,080
  • Tháng hiện tại106,459
  • Tổng lượt truy cập646,611



TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Đàm Nghĩa Quân - Viện trưởng
- Trụ sở: Số 015, phố Bế Văn Đàn, phường Hợp Giang, Thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng
- Điện thoại: 0263.852.436 – Fax: 0263.852.082
- Thư điện tử liên hệ gmail: trangtinvkscaobang@gmail.com
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng giữ bản quyền. Mong bạn đọc góp ý kiến, phê bình.


 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây