Tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định về thực nghiệm điều tra (TNĐT) như sau:
“1. Để kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra có thể thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thực nghiệm điều tra phải đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, ghi rõ kết quả thực nghiệm điều tra vào biên bản.
Nghiêm cấm việc thực nghiệm điều tra xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tham gia thực nghiệm điều tra và người khác.
2. Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản.
3. Điều tra viên chủ trì tiến hành thực nghiệm điều tra và việc thực nghiệm điều tra phải có người chứng kiến.
Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên môn tham gia. Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng có thể tham gia.
4. Trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành theo quy định tại Điều này.”
Với quy định này cho chúng ta thấy:
Thứ nhất, về mục đích của thực nghiệm điều tra: TNĐT được tiến hành nhằm mục đích kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, như: Kiểm tra xem bị can có thể thực hiện được hành vi nào đó hay không? Người làm chứng, bị hại có thể trông thấy, nghe thấy lời nói của bị can trong một khoảng cách xác định hay không?...
Thứ hai, về người có thẩm quyền thực nghiệm điều tra: Người tiến hành TNĐT có thể là Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên. Trong giai đoạn điều tra, khi cần kiểm tra, xác minh các tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra có thể TNĐT; Kiểm sát viên chủ yếu kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ĐTV khi tiến hành biện pháp này. KSV có thể trực tiếp tiến hành biện pháp này trong trường hợp cần thiết.
Thứ ba, người tham gia thực nghiệm điều tra: Những người có thể tham gia TNĐT: (i) Người có chuyên môn; (ii) Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng.
Người bắt buộc phải tham gia TNĐT: Điều tra viên, Kiểm sát viên, người chứng kiến.
Như vậy, so với BLTTHS năm 2003 (Điều 153) thì Bộ luật này đã bổ sung quy định cho phép Cơ quan điều tra mời người có chuyên môn tham gia TNĐT và quy định rõ người chủ trì TNĐT chính là Điều tra viên.
Thứ tư, các hoạt động khi TNĐT: Cơ quan điều tra có thể TNĐT bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi tiến hành TNĐT, BLTTHS năm 2003 theo hướng khi thấy cần thì có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, còn BLTTHS năm 2015 quy định bắt buộc phải thực hiện các hoạt đồng này, đồng thời còn phải ghi rõ kết quả TNĐT vào biên bản.
Thứ năm, kiểm sát thực nghiệm điều tra: BLTTHS năm 2003 không quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải kiểm sát trực tiếp việc TNĐT nên trong quá trình điều tra, Kiểm sát viên chủ yếu kiểm sát việc TNĐT thông qua nghiên cứu các biên bản do Điều tra viên chuyển đến. Để nâng cao trách nhiệm của KSV trong kiểm sát hoạt động điều tra, bảo đảm tính khách quan của việc TNĐT, BLTTHS năm 2015 tại khoản 2 Điều này đã bổ sung quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc TNĐT, theo đó:“Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản”.
Thứ sáu, nguyên tắc thực nghiệm điều tra: Tại khoản 1 Điều này quy định rõ khi tiến hành TNĐT không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tham gia thực nghiệm điều tra và người khác.
Một số vướng mắc và kiến nghị
Qua nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 về TNĐT, chúng tôi thấy quy định về vấn đề này còn có hạn chế, vướng mắc cần được hướng dẫn, sửa đổi.
- Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 45 BLTTHS năm 2015, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng có quyền tiến hành THĐT. Trong khi đó, Điều 204 của Bộ luật này về TNĐT cũng chỉ quy định trình tự, thủ tục áp dụng cho trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành biện pháp này. Bộ luật này không có quy định việc TNĐT của Tòa án, Thẩm phán. Như vậy, vấn đề đặt ra là Thẩm phán tiến hành TNĐT theo trình tự, thủ tục thế nào?
- Điều 204 Bộ luật này thiếu vắng quy định về việc lập biên bản TNĐT. Do đó, trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, bổ sung quy định này. Theo chúng tôi, có thể bổ sung thêm một khoản trong Điều luật này và quy định như sau: “Biên bản thực nghiệm điều tra được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này”. Việc bổ sung như trên vừa đầy đủ, vừa thống nhất với các quy định khác của BLTTHS 2015 như: đối chất (Điều 189), nhận dạng (Điều 190), nhận biết giọng nói (Điều 191)...
- Khoản 2 Điều 204 Bộ luật này có quy định: “2. Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản.”
Ở đây, có một số vấn đề chưa rõ: Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát bằng văn bản hay hình thức nào khác? Với trường hợp Kiểm sát viên tiến hành TNĐT thì KSV có phải thông báo cho Cơ quan điều tra, Điều tra viên hay không? Các vấn đề này, BLTTHS 2015 chưa quy định rõ. Vì vậy, trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.
Ngoài ra, có hai vấn đề chúng tôi xin bàn thêm:
- Có cần thiết quy định Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát hay không? theo chúng tôi, khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp kiểm sát việc TNĐT nên không cần thiết quy định Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát, mà chỉ cần quy định Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên biết để kiểm sát việc TNĐT;
- Trước khi tiến hành các biện pháp điều tra: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét, BLTTHS năm 2015 đều quy định rõ về mục đích Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp là để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát. trong khi đó, khoản 2 Điều này không có quy định. Do đó, để quy định tại khoản 2 Điều này được đầy đủ, theo chúng tôi, cần bổ sung cụm từ “để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc thực nghiệm điều tra” vào sau cụm từ “điểm tiến hành thực nghiệm điều tra”, cụ thể: như sau: “Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản”.
- Khi được phân công điều tra vụ án hình sự, Điều tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn TNĐT. Vậy nên, chúng tôi cho rằng, khoản 1 Điều 204 Bộ luật này không cần thiết phải quy định “... Cơ quan điều tra có thể thực nghiệm điều tra...”, mà nên giao quyền quyết định TNĐT cho ĐTV. Theo đó, khi cần kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, ĐTV có thể TNĐT. Tại khoản 4 Điều này cũng nên sửa đổi theo hướng trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể tiến hành TNĐT. Việc sửa đổi như trên là hợp lý và phù hợp với các quy định về các biện pháp điều tra khác của Bộ luật này.
- Tại khoản 3 Điều 204 Bộ luật này có quy định: Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên môn tham gia. Người có chuyên môn là người có kiến thức sâu về một lĩnh vực khoa học, kỹ thuật...Tuy nhiên, với quy định tại khoản 3 Điều này thì không rõ Cơ quan điều tra mời người có chuyên môn tham gia TNĐT bằng văn bản hay hình thức nào khác? Theo chúng tôi, việc mời người có chuyên môn phải được thể hiện bằng văn bản với đầy đủ các nội dung cần thiết như: Lý do mời người có chuyên môn tham gia, họ tham gia các hoạt động gì, thời gian, địa điểm mời họ đến...
Tác giả: Nguyễn Cao Cường - VKSND huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế
Nguồn tin: Kiemsat.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
"V/v quán triệt, triển khai thực hiện nội dung các đạo luật mới được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 5"
Thời gian đăng: 09/01/2024
lượt xem: 570 | lượt tải:0HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC PHỐI HỢP TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Thời gian đăng: 09/01/2024
lượt xem: 1075 | lượt tải:265QUYẾT ĐỊNH VỀ ĐẶC XÁ NĂM 2022
Thời gian đăng: 09/01/2024
lượt xem: 671 | lượt tải:91