Viện phúc thẩm 1: Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án dân sự bị Tòa án cấp phúc thẩm huỷ án
admin
2014-04-05T07:06:22-04:00
2014-04-05T07:06:22-04:00
https://kiemsatcaobang.vn/index.php/Nghien-cuu-Trao-doi/Vien-phuc-tham-1-Thong-bao-rut-kinh-nghiem-ve-vu-an-dan-su-bi-Toa-an-cap-phuc-tham-huy-an-185.html
/themes/kien/images/no_image.gif
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng
https://kiemsatcaobang.vn/uploads/logo1.png
Thứ bảy - 05/04/2014 07:06
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự về "Tranh chấp di sản thừa kế" giữa nguyên đơn là ông Lê Sỹ Nam và bị đơn là ông Lê Sỹ Thân, ông Lê Sỹ Nhân, ông Lê Sỹ Phấn cùng 11 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Viện phúc thẩm 1 phát hiện thấy có một số vi phạm của Toà án cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án, nên ngày 08/6/2012, Viện phúc thẩm 1 đã có Văn bản số 126/TB-VKSTC-VPT1 thông báo tới Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố cùng rút kinh nghiệm chung. Cụ thể như sau:
* Về nội dung vụ án: Vợ chồng ông Lê Sỹ Trọng và Lê Thị Xuân trú tại xóm 7. xã Hưng Thông sinh được 10 người con là Lê Sỹ Nam, Lê Sỹ Việt, Lê Thị Hoa, Lê Thị Hoè, lê Sỹ Quế, Lê Sỹ Thân, Lê Sỹ Nhân, Lê Sỹ Phấn, Lê Sỹ Hưng và Lê Sỹ Mười. Bà Lê Thị Xuân chết ngày 27/1/1992, ông Lê Sỹ Trọng chết ngày 14/11/2001. Sau khi bà Xuân chết, khối di sản của bà Xuân, ông Trọng gồm có: 2 ngôi nhà gỗ trên thửa đất 351, thừa đất 351 diện tích 1063m2 (hiện anh Nhân và anh Phấn đang quản lý), thửa đất 356 diện tích 502m2 (anh Thân đang quản lý). Năm 1999, ông Lê Sỹ Trọng mua của bà Cao Thị Lập thửa đất số 518 liền kề thửa 351 cũng ở xóm 7, xã Hưng Thông (thửa đất đó hiện anh Thân đang quản lý).
Trong số tài sản nói trên, theo nguyên đơn, bị đơn là anh Nhân, anh Phấn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Việt, bà Hoa, bà Hoè, ông Quế, ông Hưng, ông Mười thì toàn bộ số tài sản là di sản của bố mẹ để lại, yêu cầu đưa vào di sản thừa kế. Riêng anh Lê Sỹ Thân cho rằng thửa đất số 356 anh đang quản lý, sử dụng từ năm 1993 đến nay, anh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, nên thửa đất đó là tài sản của anh, không phải là di sản thừa kế của bố mẹ để lại.
Bản án sơ thẩm nhận định về thời hiệu khởi kiện trong khối tài sản của ông Trọng, bà Xuân sau khi ông bà mất, thấy: Bà Xuân chết ngày 27/1/1992, nguyên đơn khởi kiện ngày 8/11/2004, vì vậy, thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với phần di sản của bà Xuân trong khối di sản chung của vợ chồng ông Trọng, bà Xuân để lại đã hết (quá 10 năm). Như vậy, 1/2 di sản của bà XUân trong khối tài sản chung vợ chồng gồm: 1/2 của 2 ngôi nhà ở trên thửa đất số 351 đang do anh Nhân quản lý; 1/2 thửa đất số 351; 1/2 thửa đất số 356 đã hết thời hiệu khởi kiện, nên phần di sản của bà Xuân phải đình chỉ không đưa vào để chia thừa kế. Từ đó, bản án quyết định chia thừa kế cho các đương sự.
* Những vấn đề cần rút kinh nghiệm đối với quá trình giải quyết vụ án nêu trên:
- Về thủ tục tố tụng: Về việc xét xử vắng mặt bị đơn Lê Sỹ Thân và người liên quan Nguyễn Thị Hoành của Toà án cấp sơ thẩm: Vào hồi 7 giờ ngày 22/9/2011 (trước khi mở phiên toà sơ thẩm), bà Nguyễn Thị Hoành đến Toà án cấp sơ thẩm đưa "Đơn xin hoãn phiên toà và đề nghị thay đổi Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà", đơn do bị đơn Lê Sỹ Thân và người liên quan Nguyễn Thị Hoành ký. Đơn này được thư ký Nguyễn Huy Mạnh nhận và viết giấy "Biên bản giao, nhận". Sau khi nhận "Biên bản giao, nhận" đơn trên, bà Hoành ra về. Cùng ngày 22/9/2011, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh ra Quyết định số 02/2011/QĐ-TA "Không chấp nhận yêu cầu thay đổi Thẩm phán". Vào hồi 8 giờ cùng ngày 22/9/2011, Toà án cấp sơ thẩm mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Lê Sỹ Thân và người liên quan Lê Thị Hoành trong khi hai đương sự này chưa biết yêu cầu xin thay đổi Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà của mình có được chấp nhận hay không (chưa được tống đạt Quyết định "Không chấp nhận yêu cầu thay đổi Thẩm phán" theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của BLTTHS) là không đảm bảo các quyền tại phiên toà của đương sự và đặc biệt là quyền bảo vệ của đương sự được quy định tại Điều 9 và Điều 58 của BLTTDS. Đây là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng theo các Điều: Điều 9, Điều 58, Điều 147 của BLTTDS.
- Về nội dung:
+ Về việc xác định di sản: Tất cả các đương sự đều xác nhận vợ chồng ông Lê Sỹ Trọng và bà Lê Thị Xuân đã liên tục quản lý, sử dụng hợp pháp thửa đất 356 (đang do vợ chồng ông Lê Sỹ Thân quản lý) từ năm 1978 đến năm 1993, nhưng khi xác nhận thửa đất này là di sản của vợ chồng ông Lê Sỹ Trọng và bà Lê Thị Xuân, Toà án cấp sơ thẩm không tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh xem người để lại di sản có các loại giấy tờ, tài sản trên đất như hướng dẫn tại mục 1 (đặc biệt là tiểu mục 1.3) phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hay không? Tại phiên toà phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Hoành xác nhận: Từ năm 1982, ông Trọng có làm một ki ốt trên thửa đất này và ông Trọng trực tiếp bán nước chè xanh tại ki ốt này cho đến khi chết (tháng 11/2001). Ki ốt này chỉ bị phá dỡ khi nhà nước mở đường 558 vào năm 2003 hoặc 2004. Đây là chứng cứ mới, tại phiên toà phúc thẩm các đương sự khác đều không có mặt, Toà án cấp phúc thẩm không thể kiểm tra, xác minh được chứng cứ mới này.
+ Về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế: Toà án cấp sơ thẩm xác minh di sản của bà Xuân trong khối di sản chung của vợ chồng ông Trọng, bà Xuân để lại đã hết thời hiệu khởi kiện là đúng, nhưng không áp dụng điểm a.3 tiểu mục 2.4 mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để giải quyết đối với di sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của thửa số 351 do bà Lê Thị Xuân để lại là chưa đúng với thực tế của vụ án, khi tất cả các đồng thừa kế đều không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia.
Tại điểm a.3 tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn: "Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".
Do có vi phạm nghiêm trọng tố tụng, việc điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ nên Tòa án cấp phúc thẩm đã huỷ án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Toà án sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Nguồn tin: Kiemsatcaobang.vn